Khối u mô mềm ở chó (Soft Tissue Sarcoma in Dogs)

February 10, 2025

Khối u mô mềm (soft tissue sarcoma) là loại u phát triển từ các mô liên kết trong cơ thể chó. Có nhiều loại u mô mềm khác nhau, nhưng chúng được nhóm lại với nhau vì có đặc điểm tương đồng về hình thái dưới kính hiển vi và diễn biến lâm sàng. Một số loại u mô mềm thường gặp bao gồm: u xơ (fibrosarcoma), u tế bào quanh mạch máu (hemangiopericytoma), u mỡ (liposarcoma), u nhầy (myxosarcoma) và u không biệt hóa (undifferentiated sarcoma).

Khối u mô mềm thường phát triển dưới da, có thể mềm hoặc cứng và thường bám vào các cấu trúc bên dưới. Tuy có vẻ ranh giới rõ ràng khi sờ nắn, nhưng thực tế chúng xâm lấn mạnh mẽ và lan rộng ra xung quanh theo mọi hướng. Việc đánh giá kích thước khối u bằng cách sờ nắn thường không chính xác.

Ban đầu, hầu hết chó không có triệu chứng rõ ràng. Khi khối u phát triển, chúng có thể gây khó khăn trong vận động, đau đớn và đôi khi phát triển nhanh chóng chỉ trong vài tuần. Tuy nhiên, thường thì khối u phát triển chậm trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Trong trường hợp nặng, da trên khối u có thể loét hoặc vỡ ra, gây đau đớn và nhiễm trùng cho chó.

Chẩn đoán chính xác nhất được thực hiện thông qua sinh thiết phẫu thuật. Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ ít xâm lấn hơn và cho kết quả nhanh hơn sinh thiết. Mặc dù khả năng chẩn đoán xác định thấp hơn sinh thiết, nhưng đây là bước đầu hợp lý.

Tất cả các khối u mô mềm đều có khả năng xâm lấn cục bộ, nghĩa là chúng phát triển và xâm chiếm các cấu trúc xung quanh. Khả năng di căn phụ thuộc vào mức độ ác tính của khối u, được xác định thông qua mẫu sinh thiết. Phổi là vị trí di căn phổ biến nhất, ngoài ra khối u cũng có thể lan đến các hạch bạch huyết vùng hoặc các cơ quan khác. Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang ngực và siêu âm bụng được khuyến nghị để đánh giá sự lây lan của bệnh. Chụp CT scan thường được yêu cầu để lên kế hoạch phẫu thuật chính xác. CT scan có thể được mở rộng để bao gồm phổi và bụng, giúp đánh giá chính xác hơn sự hiện diện của di căn.

Phẫu thuật là phương pháp điều trị được lựa chọn cho hầu hết các khối u mô mềm. Phẫu thuật cần loại bỏ một vùng mô lành rộng xung quanh khối u. Đối với khối u ở một số vị trí, việc này có thể không khả thi hoặc đòi hỏi phẫu thuật cắt cụt chi để loại bỏ hoàn toàn. Nguy cơ tái phát sau phẫu thuật và di căn phụ thuộc vào mức độ ác tính của khối u. Phẫu thuật đơn thuần có thể chữa khỏi hoàn toàn cho các khối u độ ác tính thấp/trung bình. Tiên lượng cho khối u mô mềm độ ác tính cao là khoảng một năm.

Xạ trị được khuyến nghị sau phẫu thuật cho các khối u chưa được cắt bỏ hoàn toàn và trước phẫu thuật cho một số khối u không thể cắt bỏ hết. Điều này đòi hỏi phải điều trị xạ trị hàng ngày trong khoảng 4 tuần. Mỗi lần điều trị được thực hiện dưới gây mê toàn thân. Có thể cần chụp CT scan lần thứ hai sau phẫu thuật để lập kế hoạch điều trị xạ trị. Xạ trị thành công trong việc kiểm soát tái phát ở > 75-80% bệnh nhân. Xạ trị giảm nhẹ có thể được thực hiện trên các khối u không thể phẫu thuật hoặc các khối u mà chủ sở hữu không muốn theo đuổi phẫu thuật.

Hóa trị thường được dành cho các khối u độ ác tính cao có khả năng di căn lớn nhất. Nó thường không hiệu quả trong việc điều trị các khối u có thể đo lường được nhưng được xem xét trong các trường hợp đã xảy ra di căn tại thời điểm chẩn đoán.

Các liệu pháp khác bao gồm điện hóa trị và thuốc ức chế tyrosine kinase (Palladia®). Điện hóa trị có thể được sử dụng như một phương pháp thay thế cho xạ trị. Palladia® là một loại thuốc hóa trị dạng uống được sử dụng tại nhà.

Tác dụng phụ phụ thuộc vào phương pháp điều trị được lựa chọn, mức độ bệnh và các dấu hiệu lâm sàng. Phẫu thuật mang theo rủi ro của gây mê, mặc dù rất nhỏ. Các rủi ro khác bao gồm chảy máu và các biến chứng từ việc lành vết thương hoặc nhiễm trùng. Tác dụng phụ của hóa trị không thường xuyên và phổ biến nhất bao gồm rối loạn tiêu hóa tạm thời như nôn mửa hoặc tiêu chảy hoặc giảm số lượng bạch cầu tạm thời. Chán ăn và thờ ơ cũng có thể xảy ra. Xạ trị bao gồm việc sử dụng thuốc gây mê trong quá trình điều trị và các tác dụng phụ bao gồm rối loạn tiêu hóa (nôn mửa, tiêu chảy), kích ứng da/mô cục bộ và khả năng cản trở quá trình lành vết thương sau phẫu thuật.

Leave A Comment

Create your account